ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Việt Nam là một quốc gia thống nhất với 54 dân tộc cùng chung sống. Với tỷ lệ dân số không đồng đều (trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14.3% với hơn 12.3 triệu người, thuộc 53 dân tộc); cư trú phân tán và xen kẽ nhau… cộng đồng các dân tộc Việt Nam có nhiều đặc điểm riêng so với các dân tộc khác trên thế giới.
Coi trọng bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc
 |
Ảnh minh họa. Nguồn: tuyengiao.vn
|
Dành nhiều ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội
Bảo đảm quyền và hỗ trợ đồng bào thiểu số gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI HIỆN NAY
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ta có dân số chiếm 14,3% dân số cả nước, trong những năm qua, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, công tác bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ còn hạn chế. Phụ nữ dân tộc thiểu số ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ, nghỉ ngơi giải trí hay tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ không chỉ gánh vác mọi công việc, chăm sóc con cái, mà đồng thời còn là lao động chính trong gia đình.
Một số giải pháp đối với thực hiện bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số
Thứ nhất, trong công tác giáo dục, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ DTTS là ưu tiên hàng đầu. Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực, kết hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước.
Thứ hai, tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đồng thời, xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế “có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Thứ ba, hiện nay lao động nữ thanh niên DTTS vẫn bị tụt hậu so với mặt bằng chung của xã hội do rào cản ngôn ngữ và hạn chế về trình độ học vấn. Các lớp đào tạo dạy nghề cho phụ nữ DTTS cần quan tâm đến những đặc thù này và khả năng tham gia vào thị trường lao động cụ thể. Trong công tác đào tạo nghề thì cần có sự hài hòa về vai trò sản xuất và tái sản xuất của người phụ nữ.
Thứ tư, cần tiếp tục đầu tư và củng cố cơ sở hạ tầng ở một số vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để giúp phụ nữ DTTS tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ giáo dục và y tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, tạo điều kiện cho phụ nữ và nam giới vùng DTTS có việc làm tại chỗ, có điều kiện phát triển kinh tế gia đình không phải đi làm ăn xa, có điều kiện chia sẻ lẫn nhau trong thực hiện vai trò sản xuất, sinh sản nuôi dưỡng, cộng đồng.
Bình đẳng giới, bình đẳng các dân tộc trở thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung. Để đạt được mục tiêu này cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của toàn dân.